Hình Ảnh Người Lính Biên Phòng

Hình Ảnh Người Lính Biên Phòng

Save on PinterestShare on FacebookShare on TwitterLike this design

Save on PinterestShare on FacebookShare on TwitterLike this design

Chất liệu trang phục quân đội biên phòng

Vải gabardine – len với tỷ lệ 70:30 được sử dụng để may quần cho quân phục bộ đội biên phòng hằng ngày.

Với quần dành cho quân phục mùa đông, Chính phủ vẫn quy định sử dụng vải gabardine – len nhưng tỷ lệ được thay đổi thành 50:50.

Với bộ phận áo trong bộ trang phục của lực lượng canh giữ biên giới Việt Nam, chất liệu dùng để may áo là loại vải pêvi với tỷ lệ 65:35.

Gabardine – len và pêvi đều là hai loại vải dày dặn, có khả năng thấm hút mồ hôi và độ bền cao.

Sử dụng loại trang phục được làm từ vải gabardine – len, pêvi, các chiến sĩ bộ đội biên phòng có thể linh hoạt tác chiến ở mọi loại địa hình.

Hình ảnh phù hiệu, quân hiệu lực lượng bảo vệ biên giới

Phù hiệu của lực lượng bộ đội bảo vệ biên giới Việt Nam được thiết kế hình vuông với màu xanh lá cây làm nền.

Hình của phù hiệu màu vàng, có hình thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo lên nhau trên một vòng cung không khép kín. Ở vòng cung được vé những ký hiệu riêng đại diện cho đường biên giới Quốc gia Việt Nam.

Chính giữa là hình ảnh chiến sĩ biên phòng phi ngựa vượt sông núi bảo vệ biên cương, đảm bảo an ninh quốc gia với niềm tự tôn dân tộc.

Mẫu thiết kế quân phục bộ đội biên phòng mùa đông

Với thời tiết mùa đông giá rét, chất liệu dùng để may quần cho các chiến sĩ biên cương vẫn là vải gabardine – len nhưng tỷ lệ được thay đổi thành 50:50. Việc gia tăng tỷ lệ len trong vải may quần sẽ giúp lực lượng bộ đội giữ ấm cơ thể.

Ngoài ra, áo khóc 05 lớp, áo bông sĩ quan, áo ấm chiến sĩ cùng mũ bông, mũ lông, quân trang tuần tra,… đều được trang bị đầy đủ, nhằm đảm bảo tối đa sức khoẻ cho các chiến sĩ đang ngày đêm làm nhiệm vụ canh gác khu vực biên cương.

Ý nghĩa bên trong trang phục bộ đội biên phòng

Trang phục bộ đội biên phòng lấy xanh lá cây làm màu sắc chủ đạo với phần hoạ tiết được thiết kế theo kiểu rằn ri.

Hoạ tiết rằn ri được ra đời vào khoảng thời gian diễn ra Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi các chuyên gia quân sự Hoa Kỳ thiết kế loại trang phục chuyên sử dụng vào việc ẩn nấp cho bộ phận lính biệt kích của họ.

Từ cách ẩn náu của một loài cá có tên Peacock Flounder tại vùng biển Hawaii – khi cứ bơi sát đáy biển, cơ thể cá sẽ đổi màu theo màu của đá hoặc san hô giống như tàng hình, né tránh sự phát hiện của kẻ săn mồi – hoạ tiết rằn ri đã ra đời.

Không giống lầm tưởng của nhiều người về việc rằn ri là đại diện của màu cây rừng, trên thực tế, rằn ri mô tả màu sắc của bề mặt đất đá nơi trận địa chiến đấu.

Vì vậy, quân phục của lực lượng bộ đội biên phòng cùng với màu chủ đạo là xanh lá cây còn bao gồm các màu nâu, đen và trắng, đại diện cho lòng gan dạ, kiên trung và bất khuất của các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ canh giữ biên giới Việt Nam.

Trang phục bộ đội biên phòng còn góp phần đề cao tư thế, tác phong mạnh mẽ của người quân nhân, thể hiện rõ nét phẩm chất bộ đội cụ Hồ trong thời đại mới, luôn sống và chiến đấu hết mình để bảo vệ nhân dân.

Trong quan hệ ngoại giao, quân phục của lực lượng biên phòng Việt Nam về mặt thẩm mỹ đã kết hợp hài hoà với trang phục biên phòng của các nước bạn, thể hiện dũng mãnh nhưng không kém phần sang trọng, hiện đại.

Quân tư trang quân nhân biên phòng Việt Nam

Quân nhân biên phòng Việt Nam được cấp phát ba loại trang phục chủ yếu. Đó là quân phục dã chiến K20, quân phục mùa đông và quân phục mùa hè. Đặc điểm chi tiết của mỗi loại quân phục như sau:

Quy định mang quân phục bộ đội biên phòng mỗi chiến sĩ phải chấp hành

Về vấn đề mang mặc quân phục đối với lực lượng chiến sĩ bộ đội biên phòng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có quy định cụ thể như sau:

– Trong quá trình làm việc, học tập, sinh hoạt và công tác hằng ngày, các chiến sĩ phải tuân thủ quy định đội mũ mềm K08 theo màu sắc của bộ đội biên phòng.

– Trên mũ có gắn quân hiệu của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Quân hiệu có hình tròn với hình ngôi sao màu vàng nổi ở giữa. Xung quanh ngôi sao là hình ảnh hai bông lúa trên nền đỏ tươi.

– Bên dưới hai bông lúa có hình nửa bánh răng màu vàng. Vành ngoài của quân hiệu cũng có màu vàng tương tự.

– Quân phục mặc hằng ngày là loại K03 theo màu sắc của bộ đội biên phòng. Trên bả vai áo, các chiến sĩ cần mang cấp hiệu kết hợp phù hiệu có gắn hình đại diện cho quân chủng, binh chủng và ngành nghề chuyên môn.

– Trên ngực áo là biển tên của các chiến sĩ. Đi kèm với bộ đồ K03, mũ mềm K06, lực lượng bộ đội biên phòng cần tuân thủ việc mang thắt lưng loại nhỏ với khoá thắt lưng nằm ở đằng trước, chính giữa bụng và đi giày vải loại cổ cao.

– Trong thời tiết giá rét, bộ đội biên phòng được mặc thêm áo bông chống rét. Trên áo bông, ở phần ve cổ áo cần có cấp hiệu kết hợp phù hiệu ở phần ngực áo bên phải phải mang biển tên. Phần khoá của đai áo bông nằm ở chính giữa, trước bụng.

Mẫu quân phục bộ đội biên phòng mùa hè

Vào mùa hè, trang phục thường dùng của các chiến sĩ bộ đội biên cương bao gồm mũ, áo, quần, thắt lưng, giày và bít tất.

Trong đó, phần quần được may từ vải gabardine pha len với tỷ lệ 70:30. Gabardine – len có trọng lượng nhẹ nhưng rất dày dặn.

Đặc tính nổi bật của gabardine chính là khả năng thấm hút tốt, tạo sự thông thoáng cho cơ thể người mặc.

Gabardine rất khó bị biến dạng. Khi sử dụng trang phục thường ngày mùa hè được làm từ vải gabardine, các chiến sĩ có thể thoải mái giặt đồ mà không cần lo lắng quần sẽ bị nhăn, rút chỉ.

Áo thường ngày của bộ đội biên phòng được may từ vải pha pêvi tỷ lệ 63:35 với đặc tính bền đẹp, nhanh khô và không bị biến dạng sau nhiều lần giặt.

Tuyệt đối cấm các hành vi mua bán quân phục biên phòng Việt Nam

Quân trang quân đội nói chung và quân trang của lực lượng bộ đội biên phòng Việt Nam nói riêng được coi là sản phẩm đặc thù. Quân trang chỉ được sản xuất và cung cấp bởi các đơn vị có thẩm quyền, trực thuộc lực lượng vũ trang Việt Nam cho quân nhân sử dụng trong quá trình họ thực hiện nhiệm vụ.

Các chiến sĩ biên phòng khi được cấp phát quân trang có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn cẩn thận, không được sử dụng quân trang sai mục đích, sai quy định. Trong trường hợp một chiến sĩ biên phòng bị kỷ luật, buộc thôi việc, thôi việc, hoặc chuyển ngành, thủ trưởng của đơn vị chiến sĩ đó công tác có nhiệm vụ thu hồi quân trang cùng các trang thiết bị đã được cấp phát trước đó.

Vì vậy, các hành vi lưu thông, mua bán, sử dụng quân phục bộ đội biên phòng không đúng mục đích, sai quy định được coi là vi phạm luật pháp Việt Nam, có thể chịu xử phạt.

Quân phục bộ đội biên phòng với màu xanh quen thuộc thể hiện tinh thần chiến đấu kiên cường, bất kham của lực lượng sĩ quan đang ngày đêm đảm đương nhiệm vụ canh gác, bảo vệ vùng biên cương Tổ quốc. Hải Anh hy vọng rằng thông qua bài viết trên đây, những ai chưa hiểu rõ về trang phục của lực lượng canh giữ biên giới sẽ có thêm thật nhiều thông tin bổ ích.

Ngoài ra, khi khách hàng khi có nhu cầu thiết kế và đặt may đồng phục doanh nghiệp, áo sự kiện,… đừng ngần ngại hãy liên hệ trực tiếp tới số hotline 0886 268 268 của Đồng phục của Hải Anh. Bằng kinh nghiệm và sự sáng tạo của mình, chúng tôi sẽ mang đến cho khách hàng những sản phẩm đồng phục chất lượng cao. Đồng phục Hải Anh hy vọng có cơ hội hợp tác cùng quý khách để mang đến những giải pháp trang phục tốt nhất và đẳng cấp nhất.

1. Chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 là cuộc chiến tranh dai dẳng, gây thiệt hại lớn lao về vật chất và con người không chỉ cho đất nước Việt Nam mà còn cho nước Mĩ. Đó còn là cuộc chiến gây chia rẽ nhân tâm nhất trong lịch sử nước Mĩ. Để quốc tế hóa cuộc chiến, Mĩ đã huy động đông đảo lực lượng quân đồng minh tham chiến. Bên cạnh quân đội Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines, lực lượng quân sự Hàn Quốc đã tham gia tích cực, chiếm số lượng đông đảo nhất chỉ sau quân đội Mĩ và được đánh giá rất cao về khả năng và hiệu quả tác chiến.

Dưới sự chỉ huy của quân Mĩ, các sư đoàn Mãnh Hổ, Bạch Mã và lữ đoàn lính thủy đánh bộ Rồng Xanh được triển khai trên địa bàn các tỉnh miền Trung là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà, một địa bàn chiến lược trọng yếu. Ngoài ra còn có các đơn vị khác đóng tại Vũng Tàu, Biên Hòa, Sài Gòn. Năm 1968 là năm Hàn Quốc có lực lượng quân sự cao nhất hiện diện ở miền Nam Việt Nam với quân số lên tới hơn 50.000 người.

Tham chiến tại Việt Nam, quân đội Hàn Quốc trở thành lực lượng “xương sống” trong các cuộc hành quân bình định và tìm diệt ở duyên hải miền Trung. Từ khi đưa quân vào Việt Nam cho đến khi rút quân về nước, quân đội Hàn Quốc đã thực hiện rất nhiều cuộc hành quân và gây ra hàng loạt vụ thảm sát đẫm máu, tàn khốc như vụ thảm sát Bình Hòa thuộc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi vào tháng 12 năm 1966; vụ thảm sát Bình An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định năm 1966; vụ thảm sát Hà My, Điện Bàn, Quảng Nam năm 1968… Nhiều làng quê miền Trung có ngày “giỗ Đại Hàn” do cả làng bị quân Hàn Quốc thảm sát. Bia căm thù lính Đại Hàn đã được dựng nhiều nơi như Bình Hòa ở tỉnh Quảng Ngãi, Hà My ở tỉnh Quảng Nam, Kim Tài ở tỉnh Bình Định…

Để lại nhiều “dấu ấn” như thế trên đất nước Việt Nam, hình ảnh người lính Hàn Quốc có mặt trong khá nhiều tác phẩm của văn học Việt Nam thời kì chiến tranh. Quan sát văn học Việt Nam thời kì này, có thể thấy hình ảnh người lính Đại Hàn chủ yếu xuất hiện trong tác phẩm của các nhà văn sinh trưởng hoặc có quá trình hoạt động ở các tỉnh duyên hải miền Trung như Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam…

Chu Cẩm Phong sinh ở Quảng Nam, tập kết ra Bắc, sau này quay về hoạt động tại khu 5. Nguyễn Mộng Giác, Mang Viên Long là người Bình Định. Y Uyên người gốc Bắc nhưng dạy học ở Phú Yên. Trần Hoài Thư sinh ở Lâm Đồng nhưng thời đi lính có hoạt động ở miền Trung… Do đứng ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau, cái nhìn của các nhà văn cách mạng và cái nhìn của các nhà văn miền Nam thuộc phía Việt Nam Cộng hòa về người lính Hàn Quốc trong văn học cũng rất khác nhau.

2. Các nhà văn cách mạng gọi lính Hàn Quốc là “lính Nam Triều Tiên”. Trong một số tác phẩm của các nhà văn này, hình ảnh người lính Hàn Quốc thấp thoáng xuất hiện và được nhìn nhận có phần còn đơn giản. Đó chỉ là những người lính đánh thuê cho quân đội Mĩ. Họ do đó cũng là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.

Lính Nam Triều Tiên là những lính thiện chiến, can đảm trong trận mạc, nhưng tàn bạo, ráo hoảnh nhân tính, đã gây nhiều tội ác ở Việt Nam, gây ra nhiều cuộc thảm sát ở các vùng nông thôn Việt Nam. Trong tiểu thuyết Mẫn và tôi, Phan Tứ viết về lính Nam Triều Tiên như là một đội quân ác ôn, làm cho đời sống của người dân trở nên khó khăn, khổ sở: “Quân ngụy Nam Triều Tiên đóng chật cứng trong phố cảng, giá gạo củi tăng gấp ba bốn lần, thở sao nổi, còn chưa nói tới tụi ác ôn Rồng Xanh, Cọp Trắng ấy phá phách đến chừng nào”.

Ở Nhật kí chiến tranh của Chu Cẩm Phong, hình ảnh tàn bạo của lính Nam Triều Tiên cũng không ít lần xuất hiện, chẳng hạn: “16/7/67. Đi qua núi Tròn, ngay gần sát dưới chân núi, nhìn thấy rõ trụ cờ và từng nhánh nhỏ của một cây khô. Đường nắng và vắng quá nên hơi ngại. Chỉ e một thằng Nam Triều Tiên tàn bạo nào đó ngứa tay nổ phát súng. Đối với bọn địch dã man như bọn này, việc bắn một người dân lương thiện chúng không cho là lầm lỗi”.

Trong bút kí Xuân 1975 - Đất Quảng, Triệu Xuân đã viết về một cuộc thảm sát của lính đánh thuê Nam Triều Tiên: “Trên doi đất nhô ra sông Thu Bồn, cách cụm cứ điểm Nông Sơn không đầy hai giờ đi thuyền, cách đây năm mùa xuân, bọn đánh thuê Nam Triều Tiên đã bắt hàng chục người toàn phụ nữ, cụ già và con nít trong làng xếp thành một hàng, rồi dùng tiểu liên bắn chết. Cùng ngày đó, đài phát thanh Sài Gòn, một thứ tiếng nói của loài thú, đưa tin: Quân đội đồng minh trong một trận đọ súng ở cách tây nam Đà Nẵng 65 kilômét đã bắn hạ một đại đội Việt cộng. Xác hàng chục người đã ngã xuống sông Thu, trôi trên dòng sông Thu...

Nước sông Thu Bồn vốn rất xanh đã biến thành màu đỏ trong những ngày kẻ thù bình định. Mảnh đất quê hương dường như cũng đổi màu. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm đã thấm nhiều máu đỏ của người dân đất Quảng. Máu con người đã nhuộm đỏ dòng sông, mảnh đất quê mình. Rồi kẻ thù sẽ phải trả nợ máu!”.

Do được nhìn từ xa, từ phía đối nghịch nên chân dung người lính Nam Triều Tiên trong tác phẩm của các nhà văn cách mạng nhìn chung còn sơ lược. Trong Bài thơ về hạnh phúc, nhà thơ Dương Hương Ly gọi những người lính Nam Triều Tiên đã bắn chết vợ mình bằng tên gọi “quân thù” chung chung: Những viên đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu xoáy/ Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người/ Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi/ Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, trong Chiến trường, sống và viết, cho rằng nhân vật phản diện nơi các tác phẩm văn học của ta viết về chiến tranh chống Mĩ “hãy còn mờ nhạt”, “đọc rồi, ta cứ vẫn thấy nó méo mó”, “bởi vì ta chỉ thấy cái bên ngoài hơn là cuộc sống bên trong của nó”. Phạm Văn Sĩ trong Văn học giải phóng miền Nam cũng cho rằng những nhân vật phản diện trong các tác phẩm đề tài này chưa phải là những tính cách văn học. Người lính Hàn Quốc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 nhìn chung cũng được khắc họa đơn giản, một chiều, mờ nhạt như thế.

3. Các nhà văn miền Nam Việt Nam gọi lính Hàn Quốc là “lính Đại Hàn”. Do tiếp cận người lính Hàn Quốc ở một cự li gần, có người còn sát cánh cầm súng cùng quân đội Hàn Quốc, hình ảnh người lính Hàn Quốc trong tác phẩm của các nhà văn miền Nam Việt Nam có phần rõ nét hơn và cũng đa dạng, phức tạp hơn.

Có nhà văn nhìn nhận lính Hàn Quốc như là những người lính đánh thuê, tham chiến chỉ vì tiền. Có người nhìn nhận họ như những người lính man rợ, giết người không gớm tay. Ngụy Ngữ trong truyện ngắn Theo những đường bay đi xa đã viết về “những thằng Đại Hàn man rợ cắm cái đầu người trước xe Jeep, những xâu chuỗi kết bằng tai người khô queo, những họng súng bắn vào dân tị nạn”.

Nhà thơ Luân Hoán tỏ ra không có cảm tình với lính Hàn Quốc: chỗ nào lính Đại Hàn qua/ giếng sâu thuốc độc đã hòa nước trong (Đốt vườn ở Sơn Kim). Là một người lính hải quân của miền Nam nhưng Lê Bá Thông vẫn không có mấy thiện cảm với sự hiện diện của lính Đại Hàn: “Trên đường thỉnh thoảng vài chiếc xe quân đội chở lính Đại Hàn chạy ngang qua, trên xe mấy anh lính miệng cười nham nhở, đưa tay vẫy về phía xe Jeep của Vân, làm cho Hương, bạn gái của Vân, cảm thấy khó chịu” (Sao rơi trên biển).

Cây bút nữ Lê Thị Hoài Niệm viết về những hệ lụy do quân đội Đại Hàn gây ra: “Má tôi kể là có một đơn vị lính Đại Hàn, họ đóng đồn ở giữa đồng trống, chung quanh họ rào kẽm gai đến mấy vòng, hễ có ai lảng vảng đến là họ bắn chết không kêu than. Những ngày tháng đầu vô cùng yên ắng, người dân nào còn ruộng lúa chung quanh thì ban ngày có thể ra đồng làm việc, buổi tối thì họ thiết quân luật. Vậy mà một trận tấn công đồn lại xảy ra.

Không biết có bao nhiêu quân của mặt trận giải phóng xuất hiện, họ lần mò trong đêm tối cắt những vòng dây thép để xâm nhập vào đồn, dù những người lính Đại Hàn canh gác rất nghiêm nhặt. Một trận đánh xáp lá cà ngay trong đồn diễn ra, những người dân trong làng chỉ nghe tiếng súng nổ đã inh tai nhức óc, thót cả tim. Và qua một đêm đen hãi hùng, sáng ngày hôm sau, những người lính đồng minh đi lùng sục, bắt bớ và… giết người nào mà họ cho là có liên hệ với những bọn mặt trận tấn công đồn (Má tôi với quê hương ngày cũ)…

Cũng có cây bút miền Nam tỏ ra thiện cảm với quân đội Hàn Quốc, như Trần Hoài Thư, người từng sát cánh với quân đội Đại Hàn trong một thời gian khá dài tại Bình Định. Hình ảnh người lính Hàn Quốc hiện diện trong một số truyện ngắn của Trần Hoài Thư như Đêm Chiêm Thành, Gò Bồi bên kia sông với tư cách là những người lính đồng minh.

Nhà văn Nguyên Lương trong Câu chuyện của tôi và một người Hàn họ Lý kể về những người lính Hàn Quốc thân thiện, trong đó có một người thường đến thăm nhà và bút đàm chữ Hán với cha của ông: “Những người lính Hàn thường ra khỏi trại, đến nhà dân thăm hỏi, cho quà, làm quen và tìm hiểu dân tình”. Nguyên Lương cũng viết về vị thiếu tướng Chun Doo-hwan, chỉ huy quân đội Đại Hàn tại Việt Nam, sau trở thành Tổng thống Hàn Quốc. Thiếu tướng Chun Doo-hwan thường ghé Quy Nhơn thăm trường Nguyên Lương học và giúp đỡ trường xây một hội trường lớn theo kiểu kiến trúc cổ rất đẹp.

Có nhà văn nhìn nhận lính Đại Hàn là những người dù tàn bạo nhưng vẫn mang trong mình văn hóa, tôn giáo của họ và họ cũng biết tôn trọng văn hóa, tôn giáo của người Việt. Trong truyện ngắn của Mang Viên Long, hình ảnh người lính Đại Hàn hiện diện khá đậm nét. Nhân vật Tiên trong tác phẩm Trên đỉnh tháp chuông nhận thấy rằng những người lính viễn chinh khi đến nhà thờ cũng đeo tấm thánh giá trên cổ như những con chiên ngoan đạo khác.

Ở truyện ngắn Chùa Cô Ba, Mang Viên Long viết về phản ứng của lính Đại Hàn khi xông vào một ngôi chùa ở làng quê: “Có một lần, gặp toán lính Đại Hàn xồng xộc tràn vào chùa, cô Ba đứng chận ngay ở cổng, lấy tờ giấy carton gần đó, viết dòng chữ Hán rồi đưa cho tên lính đang đứng trước mặt: Chúng tôi thờ Phật, các ông hãy tôn trọng, giúp đỡ, không nên quấy phá. Sau đó, cô Ba vẫn thản nhiên, tay cầm tràng hạt, dạo bước theo họ, yên lặng. Từ hôm ấy, đã thấy vắng bóng của lính Đại Hàn ngang nhiên vào chùa lùng sục”. Cô Ba cho rằng họ như là những nạn nhân của chiến tranh: “Cô cảm thấy thương xót họ, những mảnh đời đang trôi lăn dần vào cõi tối tăm đau khổ, nhưng không thể chia sẻ được lời nào”.

Nhà văn Võ Hồng trong truyện ngắn Như con chim sơn ca lại lên án sự phi lí của chiến tranh khi kể về cái chết của Ái Lan, một cô bé nông dân sống ở vùng “giải phóng” hồn nhiên, vô tư “như con chim sơn ca mổ hạt lúa và con sâu ở cánh đồng bên này rồi bay vụt qua cánh đồng bên kia, lại mổ con sâu, hạt lúa”. Ái Lan đi lên núi gài chông gặp đúng lúc lính Đại Hàn đi càn, cô chạy về đạp trúng ngay bàn chông mình gài. Ở truyện ngắn Chuyến về Tuy Hòa, Võ Hồng lại viết về một quân nhân Đại Hàn “có vẻ mặt khó hiểu” cùng đi trên chuyến xe đò về thị xã Tuy Hòa, tỉnh lị của Phú Yên.

Như vậy, có thể thấy, trong văn học Việt Nam trước 1975, hầu như không có nhân vật người lính Hàn Quốc nào được xây dựng công phu, có số phận, có cuộc đời riêng, trở thành những tính cách văn học đầy đặn, thuyết phục.

4. Sau năm 1975, hình ảnh người lính Hàn Quốc vẫn còn hiện diện trong khá nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam, như các tiểu thuyết Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác, Gió Tuy Hòa của Trần Thiện Lục, Trăng mật bến sông Cầu của Nguyễn Tấn Hưng, Khoảng lặng sau chiến tranh của Trịnh Đình Khôi; truyện dài Phương trời cao rộng của Vĩnh Hảo; tập truyện ngắn Những mảnh đời luân lạc của Trần Đại Nhật; các truyện ngắn Trong khu rừng yên tĩnh của Lê Hoài Lương, Ông già bán quán ăn ở Seoul của Võ Thị Xuân Hà, Ngôi mộ không hài cốt của Văn Quốc Thanh, Con người lính Đại Hàn của Đinh Phong, Mùa xuân của biển của Đỗ Kim Cuông; tập truyện kí Huyền thoại tàu không số của Đình Kính; hồi kí Chiến trường, sống và viết của Nguyên Ngọc, hồi kí của Cao Duy Thảo, Bùi Minh Quốc…

Hình ảnh lính Đại Hàn còn hiện diện cả trong thơ Việt Nam sau 1975, chẳng hạn như những “toán lính Đại Hàn” ẩn hiện trong khung cảnh thánh địa Mĩ Sơn, tháp Yang Pakran Yang Praung “phực cháy”, tháp Dương Long, tháp Cánh Tiên… ở trường ca Sầu ca trên đồi cát Nam Kương của Inrasara. Trần Vàng Sao trong bài thơ Gọi tìm xác đồng đội đã nhập vai một người lính hi sinh trong trận đánh với lính Nam Triều Tiên: Tôi chết trong trận đánh xáp lá cà với bọn Rồng Xanh Nam Triều Tiên ở Kỳ Lam/ Không biết anh em chôn tôi ở đâu.

Sau chiến tranh, nhờ có độ lùi về thời gian, văn học viết về chiến tranh đã có chiều sâu hơn với nhiều tìm tòi về nội dung và nghệ thuật. Hình ảnh người lính Hàn Quốc do đó cũng sinh động hơn, có số phận, cuộc đời riêng, tính cách riêng.

Trong tập truyện ngắn Những mảnh đời luân lạc viết về đề tài con lai Hàn - Việt của Trần Đại Nhật có nhân vật người lính Đại Hàn tên Lee. Lee là một sinh viên, thi rớt, chán nản nên bỏ học, bị động viên vào quân đội. Người yêu của anh bỏ đi lấy chồng khi anh còn ở quân trường. Sau khi hoàn thành đợt huấn luyện, anh được bổ sung vào sư đoàn Mãnh Hổ sang tham chiến tại Việt Nam.

Lee chiến đấu như một người vô hồn: “Là một người lính, Lee làm theo mệnh lệnh của cấp chỉ huy như một cái máy những khi tác chiến. Nhưng là một con người có tâm hồn, nhiều lúc Lee suy nghĩ mình đang chiến đấu vì điều gì đây. Không phải vì lí tưởng, không phải vì Tổ quốc của mình, tại sao mình lại dấn thân đến vùng chết chóc này? Lee đâm ra chán nản vì không tìm thấy câu trả lời ổn thỏa”. Do buồn chán, Lee hay ra quán nước ngồi, từ đó quen thân với một cô chủ quán tên Lan có gương mặt đẹp và đôi mắt quyến rũ.

Họ yêu nhau và có với nhau một đứa con gái. Rồi Lee phải trở về nước và bị đứt liên lạc với người yêu. Sau chiến tranh, Lee trở thành một vị giáo sư sử học và sang lại Việt Nam để sưu tầm tư liệu viết về hậu quả của chiến tranh. Ông cũng muốn tìm lại Lan và đứa con của mình. Nhưng cô Lan - người yêu cũ của Lee- vì đau buồn đã trở thành một bà già điên khùng, luôn ăn mặc rách rưới, tóc tai bù xù rũ rượi. Còn người con gái của bà và Lee do hoàn cảnh đã trở thành gái điếm.

Nhà văn Nguyên Lương trong tác phẩm Những người Hàn, họ Lý, gốc Việt có kể câu chuyện của ông và một người Hàn tên Teak Young Lee (Lý Hoàng Tất). Teak Young Lee là một trong những người lính Hàn Quốc đầu tiên được đưa đến Việt Nam tham chiến từ những năm 1968 - 1972, làm lính tình báo trong sư đoàn lục quân Mãnh Hổ đóng tại vùng núi Vân Sơn, xã Phước Thành, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Anh ta thường đến nhà Nguyên Lương và bút đàm bằng chữ Hán với bố nhà văn.

Sau chiến tranh, nhờ có kinh nghiệm sống và làm việc ở Việt Nam trong thời chiến, Teak Young Lee được công ti Samsung cử làm giám đốc ở Bắc Ninh. Trong thời gian này, qua việc tìm hiểu kĩ về gia phả, Teak Young Lee biết ông tổ của mình cũng xuất thân từ vùng đất mà mình đang làm việc và đã rất xúc động: “Thảo nào mình rất mến người Việt, vì trong máu của mình cũng có dòng máu của Việt tộc”.

Võ Thị Xuân Hà với truyện ngắn Ông già bán quán ăn ở Seoul, in trong tập truyện ngắn Cành phong hương, kể về những lần gặp gỡ của một cô gái Việt với ông chủ một quán ăn ở Seoul “nom rất phúc hậu”, là lính Pak Chung Hee trước kia đã từng tham chiến ở Việt Nam. Người lính ấy từng bắn vào lưng của một bà mẹ trẻ trước ánh mắt chứng kiến của đứa con gái còn non dại. Người lính ấy cũng đã từng ngập ngừng khi chĩa súng vào em bé gái ấy. Giờ nỗi xót xa ân hận của ông như toát ra từ thân thể mỏng dính vì chất độc chết người nào đó từ chiến trường Việt Nam.

Trong tiểu thuyết Mùa biển động, Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng nhân vật thiếu tướng Kim I. Chung, chỉ huy quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam. Đây có lẽ là nhân vật người lính Hàn Quốc có quân hàm cao nhất từng xuất hiện trong văn học Việt Nam. Thiếu tướng Kim I. Chung tuổi đã gần sáu mươi, từng tham dự vào cuộc phản công lên Bắc Triều Tiên trong chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1953. Nguyên mẫu của nhân vật này có lẽ là thiếu tướng Chun Doo-hwan, nguyên Tổng tư lệnh quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam thời chiến tranh, sau này là Tổng thống Hàn Quốc.

Đây cũng là tiểu thuyết miêu tả sinh động nhất về những hoạt động của quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam, cụ thể là ở Quy Nhơn, từ lúc sư đoàn Mãnh Hổ đổ bộ lên cảng Quy Nhơn và từ lúc bản doanh chỉ huy đóng tại làng Phú Tài tung các đợt càn quét đẫm máu và hung bạo. Bên cạnh việc miêu tả những hoạt động tuyên truyền, phát thuốc, khám bệnh của quân đội Hàn Quốc, việc sư đoàn Mãnh Hổ xây biếu trường trung học Cường Để một đại thính đường làm nơi sinh hoạt chung cho học sinh, Nguyễn Mộng Giác viết về một cuộc thảm sát ghê rợn những người dân vô tội do quân đội Hàn Quốc gây ra để trả thù cho một thiếu úy Hàn Quốc bị du kích bắn chết.

5. Quân đội Hàn Quốc đã tham chiến tích cực bên cạnh quân đội Mĩ ở Việt Nam và gây ra không ít tội ác chiến tranh, đặc biệt là nhiều trận thảm sát người dân Việt Nam vô tội. Nhưng so với những tác phẩm của Hàn Quốc viết về chiến tranh Việt Nam như các tiểu thuyết, truyện ngắn của Hwang Sok-Yong, Bang Hyun Suk… thì tác phẩm của các nhà văn Việt Nam viết về sự tham dự của quân đội Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam vẫn còn khá đơn giản. Nhân vật người lính Hàn Quốc trong văn học cách mạng, văn học miền Nam Việt Nam và cả trong văn học Việt Nam sau 1975 vẫn còn khá mờ nhạt, chưa có chiều sâu. Đây là một vấn đề cần suy nghĩ đối với các nhà văn Việt Nam khi “thâm canh” đề tài chiến tranh - đề tài vẫn còn nhiều tầng vỉa giàu sức vẫy gọi

Cơ quan chủ quản: Hiệp hội các Trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Giấy phép số 74/GP-BTTTT ngày 26/02/2020.

Giấy phép sửa đổi, bổ sung số 50/GP-BTTTT ngày 05/03/2024.

Phó Chủ tịch Hiệp hội, Tổng Biên tập: Nguyễn Tiến Bình.

Tầng 3 Khu A, Phòng 3,4 số 141 Lê Duẩn, P.Cửa Nam, Q.Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội

Đường dây nóng: 0938.766.888 - 0243.5569666

Chúng tôi xin lỗi vì sự nhầm lẫn, nhưng chúng tôi không thể biết bạn là người hay kịch bản.

Đánh dấu vào ô và chúng tôi sẽ tránh đường cho bạn.